Bạch đậu khấu, tên khoa học là Lathyrus odoratus, là một loài thực vật có hoa thuộc họ đậu (Fabaceae). Bạch đậu khấu có nguồn gốc từ vùng Địa Trung Hải và châu Âu, được trồng làm cây cảnh và hoa cắt cành. Bạch đậu khấu dùng làm thuốc được ghi đầu tiên trong sách Bản thảo thập di là quả gần chín phơi hay sấy khô của cây Bạch đậu khấu. Quả hình cầu dẹt, có 3 múi, đường kính 1 – 1,5 cm. Mặt ngoài vỏ màu trắng ngà, có một số đường vân dọc, đôi khi còn sót cuống quả. Vỏ quả khô dễ tách.
Đặc điểm
Quả bạch đậu khấu có 20-30 hạt được gọi là khấu mễ hoặc khấu nhân, chúng được tập hợp lại thành khối hình cầu được gọi là khấu cầu. Khấu cầu được chia thành 3 múi, mỗi múi có 7-10 hạt và được ngăn cách bởi thành mỏng màu trắng. Hạt có hình khối nhiều mặt không đều, đường kính khoảng 3mm, mặt ngoài màu nâu nhạt đến nâu thẫm, được phủ bởi vân nhỏ và có chất cứng. Khi cắt ngang, mặt trong của hạt có màu trắng và chứa nhiều tinh dầu. Quả bạch đậu khấu có mùi thơm và vị cay.
Vỏ hạt gồm các tế bào hình chữ nhật, có thành hơi dày. Các tế bào chứa sắc tố màu hồng nâu, to nhỏ không đều. Tế bào chứa tinh dầu. Hạt tinh bột có đường kính 3 – 6 mm.
Phân bố
Cây bạch đậu khấu là loài cây bản địa ở miền nam Ấn Độ và Sri Lanka, nơi chúng thường mọc nhiều trong những khu rừng cao 800 – 1500 m so với mực nước biển. Nó cũng được trồng nhiều ở Ấn Độ, phia nam châu Á, Indonesia, Guatemala.
Cây Đậu khấu mọc hoang và được trồng ở Việt nam, Lào, Campuchia, Thái lan, Xri Lanca, Nam mỹ. Ở Việt Nam, cây mọc tự nhiên và được trồng ở vùng núi cao, có khí hậu mát lạnh như Lào Cai, Cao Bằng.
Đơn vị đo lường
Gram, kilo gram.
Thành phần hóa học
Trong Bạch đậu khấu có chừng 2,4% tinh dầu, thành phần chủ yếu của dầu có: bomeol, camphor, humulene, eucalyptole, pinene, caryophyllene, laurelene, terpinene, myrtenal, carvone, sabinene.
Tác dụng
Theo kết quả nghiên cứu hiện đại, bạch quả có tác dụng tăng tiết dịch dạ dày, hưng phấn nhu động ruột, tống khí tích trệ ở ruột, ức chế sự lên men bất thường của ruột và cầm nôn.
– Trị chứng ngực bụng đầy đau: Ngũ cách khoan trung ẩm: Bạch đậu khấu 5g, Hậu phác 6g, Quảng Mộc hương 3g, Cam thảo 3g, sắc uống.
– Trị chứng thấp ôn, ngực tức đầy khó thở: Tam nhân thang (Ôn bệnh điều biện): Bạch khấu nhân 5g, Hạnh nhân 10g, Ý dĩ nhân 15g, Hậu phác 6g, Hoạt thạch 12g, Trúc diệp 10g, Bán hạ 10g, Thông thảo 6g, sắc uống.
– Trị chứng rối loạn tiêu hóa, buồn nôn, nôn, ợ hơi: Bạch đậu khấu 20g tán bột mịn, nước Sinh khương vừa đủ làm viên, mỗi lần uống 0,5 – 3g với nước sôi nguội. Trị nôn do vị hàn.
– Giải độc rượu: say rượu không tỉnh. Dùng Bạch đậu khấu 5g, Cam thảo 5g, sắc nước uống cho uống.
– Trẻ em bú vào trớ ra: Bạch đậu khấu 14g, Sa nhân 14 nhân, Cam thảo 8g, đều tán bột mịn xát vào mồm trẻ.
Sử dụng:
Chúng thường được trồng bằng hạt vào mùa thu và bằng rễ vào mùa xuân và mùa hè, trồng trên đất khô, ẩm, màu mỡ và có bóng mát. Thường thu hái ở những cây được 3 năm tuổi. Khi quả từ màu xanh chuyển sang vàng xanh thì hái phơi hay sấy khô loại bỏ cuống, xông diêm sinh cho vỏ trắng ra, khi dùng bóc vỏ lấy hạt.
Bảo quản quả bạch đậu khấu
Để nơi khô, mát, trong bao bì kín, tránh mọt.