Bạch thược (danh pháp khoa học: Paeonia lactiflora) là một loài thực vật có hoa thuộc họ Hoàng liên (Paeoniaceae). Loài này bản địa châu Á, được tìm thấy ở Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản và Nga. Bạch thược có lá đơn và hoa lớn, thường màu hồng hoặc trắng, có mùi thơm đặc trưng. Nó được trồng làm cây cảnh và được sử dụng trong y học truyền thống để điều trị các bệnh như đau đầu, đau bụng kinh, táo bón, và khó chịu trong kinh nguyệt.
Các nghiên cứu cũng cho thấy rằng bạch thược có thể có tác dụng chống viêm và chống oxy hóa. Tuy nhiên, những người có tiền sử dị ứng hoặc đang sử dụng thuốc khác nên tham khảo ý kiến của bác sĩ trước khi sử dụng bạch thược.
Đặc điểm
Cây thảo sống lâu năm, cao 50-80cm, lá mọc so le, chụm hai hay chụm ba, kép, với 9-12 phần phân chia, các đoạn không đều, hình trái xoan ngọn giáo, dài 8-12cm, rộng 2-4 cm mép nguyên, phía cuống hơi hồng.
Hoa rất to mọc đơn độc, có mùi hoa Hồng, trên mỗi thân mang hoa có 1-7 hoa, rộng 10-12cm. Đài có 6 phiến, cánh hoa xếp trên một dãy hoặc hai dãy, màu hồng thịt trước khi nở, rồi chuyển dần sang màu trắng tinh; bao phấn màu da cam. Quả gồm 3-5 lá noãn. Có nhiều thứ trồng khác nhau, có hoa vào khoảng tháng 5-6, có độ lớn, số lượng cánh hoa và màu sắc… khác nhau. Bạch thược vị đắng chua, tính hơi chát.
Tên khoa học
- Paeonia lactiflora Pall. – Ranunculaceae.
Mô tả
- Cây thảo sống lâu năm, cao 50-80cm, lá mọc so le, chụm hai hay chụm ba, kép, với 9-12 phần phân chia, các đoạn không đều, hình trái xoan ngọn giáo, dài 8-12cm, rộng 2-4 cm mép nguyên, phía cuống hơi hồng. Hoa rất to mọc đơn độc, có mùi hoa Hồng, trên mỗi thân mang hoa có 1-7 hoa, rộng 10-12cm. Đài có 6 phiến, cánh hoa xếp trên một dãy hoặc hai dãy, màu hồng trước khi nở, rồi chuyển dần sang màu trắng tinh; bao phấn màu da cam. Quả gồm 3-5 lá noãn. Có nhiều thứ trồng khác nhau, có hoa có độ lớn, số lượng cánh hoa, màu sắc… khác nhau. Hoa nở vào tháng 5-6.
- Cây được trồng nơi núi cao, khí hậu mát, mọc dưới những cây bụi hoặc cây to.
Thu hái, sơ chế
- Thu hoạch sau 4 năm, vào khoảng tháng 8-10. Đào lên, cắt bỏ thân rễ và rễ con, rửa sạch, ngâm nước 1-2 giờ, ủ 1-2 ngày đêm hoặc có thể đồ. Sau khi đồ, nắn lại cho thẳng rồi phơi hay sấy khô. Có thể bào hay thái mỏng sau khi đồ rồi sao qua. Có khi tẩm giấm rồi sao qua hay sao cháy cạnh, hoặc tẩm rượu sao qua.
Mô tả dược liệu
- Rễ hình trụ tròn, thẳng hoặc hơi uốn cong. Mặt ngoài hơi trắng hoặc hồng nhạt, nhẵn hoặc đôi khi có nếp nhăn dọc và vết tích của rễ nhỏ. Chất rắn chắc, nặng, khó bẻ gẫy. Mặt cắt phẳng màu trắng ngà hoặc hơi phớt hồng.
Tính vị
- Vị chua, hơi đắng, tính mát.
Quy kinh
- Vào kinh Tâm, Tỳ, Phế, Can.
Hoạt chất
- Trong rễ có paeoniflorin, oxypaeoniflorin, albiflorin, benzoyl-paeoniflorin, oxypaeoniflorinone, paeonolide, paeonol… còn có tinh bột, tanin, calci oxalat, tinh dầu, chất béo, chất nhầy, acid benzoic.
Dược năng
- Bình can, dưỡng huyết, liễm âm.
Liều dùng
- Ngày dùng 6 -12g, dạng thuốc sắc.
Chủ trị
- Dùng dạng sống chữa nhức đầu, chân tay đau nhức, trị tả lỵ, mồ hôi trộm, tiểu tiện khó, đái đường; giải nhiệt, chữa cảm mạo do chứng lo gây nên.
- Dạng sao tẩm chữa các bệnh về huyết, thông kinh nguyệt. Nếu sao cháy cạnh chữa băng huyết. Nếu sao vàng chữa đau bụng kinh, rong kinh…
Kiêng kỵ
- Trúng hàn, đau bụng tiêu chảy, đày bụng thì không nên dùng.
Bảo quản
- Dược liệu chưa bào chế thì cần phải sấy Lưu huỳnh, khi đã bào chế rồi thì cần phải để nơi khô ráo, tránh ẩm.